top of page

LƯÝ:  Các bàđăng trong tiêu mc ch để tham kho ch không mang tính cách truyn bá.

Các bài DỊCH CÂN KINH Mười Hai Thức chữa bệnh và bồi dưỡng sức khỏe

Một số món ăn - bài thuốc từ củ cải  

Để chữa hen, có thể lấy củ cải trắng sao giòn, tán nhỏ, ngào với đường mía rồi làm thành viên bằng hạt ngô, cho vào lọ đậy kín. Mỗi lần lên cơn hen, uống 40-50 viên với nước ấm.

Theo Đông y, củ cải tươi sống có vị cay, tính mát, khí đi lên; củ cải đã nấu chín vị ngọt, tính bình, khí đi xuống. Loại rau này có thể chữa được nhiều bệnh về hô hấp (ho, đau tức ngực, mất tiếng, ho ra máu), tiêu hóa (đau vùng thượng vị, ợ chua, nôn, khó tiêu, táo bón, trĩ), tiết niệu (tiểu rắt, tiểu buốt, tiểu đục, có sỏi) và các bệnh tiểu đường, huyết áp cao...

Ngoài ra, củ cải còn có công dụng hoạt huyết, chỉ huyết (chữa nôn ra máu, chảy máu cam, tiêu, tiểu ra máu...), trừ sỏi mật và giải một số tình trạng ngộ độc như: hơi khói than, rượu, cà, hàn the...

Sau đây là một số món ăn - bài thuốc theo Đông y và kinh nghiệm dân gian.

- Lao phổi, ho, đau tức ngực, ho ra máu: Dùng 2-3 củ cải giã lấy nước, thêm ít muối để uống.

Cũng có thể lấy củ cải, sinh địa, ngó sen, lê mỗi thứ 1 kg, mạch môn 500 g, gừng 500 g. Tất cả để tươi, nấu sôi trong 30 phút rồi vắt lấy nước, nấu lại lần hai, lấy 2 nước nhập lại, cô thành cao lỏng. Cho thêm các vị a giao, đường phèn, mật ong mỗi thứ 500 g, nấu thành cao đặc, đổ vào lọ. Ngày uống hai lần sáng và chiều, mỗi lần 2 thìa canh. Dùng với nước ấm hoặc ngậm nuốt.

- Viêm họng, khí quản cấp tính: Củ cải 500-1.000 g, quả trám 250 g, sắc uống.

- Ngạt vì khói than: Lấy nước cốt củ cải hoặc nước ép lá củ cải đổ vào miệng.

- Lao phổi ra máu: Củ cải 300 g nấu với 400 ml nước lấy 100 ml, bỏ bã. Thêm 9-10 g phèn chua, 150 g mật ong, quấy đều, đun lên. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 50 ml lúc bụng đói.

- Đau đầu do cao huyết áp: Nước củ cải tươi uống lạnh.

Hoặc: Dùng nước củ cải tươi 150-200 ml trộn với nước sắc của các vị sau: sinh địa tươi 12 g, thiên ma 6 g, câu đằng 6 g, trân châu 15 g, táo nhân 10 g. Uống ngày 2 lần sáng và chiều, kèm theo xông hoặc uống 20 ml nước củ cải tươi.

- Cước, đau chân nhiều do di chuyển: Củ cải 1 kg nấu lấy nước ngâm chân, đồng thời tẩm ướt khăn bằng nước củ cải nóng, xoa đắp chỗ đau. Cũng có thể lấy 1 kg củ cải phơi sấy khô, tán bột, xoa chân trước khi đi tất hoặc rắc vào trong giày, tất.

- Tiểu đường: Củ cải tươi 200 g (gọt vỏ, thái sợi), gạo tẻ 50 g, gạo nếp 50 g, nấu thành cháo, ăn nóng, ngày hai lần. Mỗi liệu trình 3-5 ngày liền.

- Bí tiểu, đau tức do nhiệt tích bàng quang: Củ cải tươi 200 g, hành tây 100 g, gạo tẻ 50 g, gia vị vừa đủ, nấu thành cháo. Dùng ngày hai lần vào lúc đói.

- Rối loạn tiêu hóa (đau bụng, nôn, tiêu chảy, mệt lả): Củ cải 150 g, cà rốt 150 g, xương sườn lợn 200 g (chặt khúc ngắn), gia vị. Ninh nhừ xương trước với muối, cho hai thứ vào sau, ninh tiếp. Ăn kèm rau cải cúc đã hấp chín (trước khi ăn cơm).

- Kiết lỵ, cấm khẩu: Lấy mấy củ cải trắng ép lấy nước, thêm một ly nước, đem sắc hòa với ít đường để uống.

- Chữa tiểu ít, tiểu đục, có sỏi: Dùng một trong các cách như ép nước củ cải tươi, sắc củ cải tươi để uống, lấy củ cải khô tán bột (trước đó có tẩm mật sao nhiều lần hoặc không tẩm mật) uống hoặc làm hoàn. Khi uống cho thêm ít muối.

- Tiêu cơm, tan đờm: Củ cải trắng 250 g, thịt lợn nạc 100 g, bột gạo hoặc mì 250 g, gừng, hành, muối, dầu vừa đủ. Củ cải thái chỉ, xào tái cùng thịt lợn (thái sợi), trộn làm nhân bánh. Làm chín bánh bằng cách hấp hoặc rán.

- Ho nhiều, suy nhược: Củ cải trắng 1 kg, lê 1 kg, gừng tươi 250 g, sữa 250 g. Lê gọt vỏ, bỏ hạt, củ cải và gừng tươi rửa sạch, thái nhỏ, mỗi thứ vắt nước, để riêng. Cô nước củ cải, lê đến khi đặc dính rồi thì cho nước gừng, sữa, mật ong vào quấy đều, đun sôi lại. Khi nguội, cho vào lọ đậy kín. Mỗi lần dùng một thìa canh pha vào nước nóng để uống. Ngày hai lần.

- Chữa lưng đau gối mỏi, dễ yếu mệt ở người già: Chim cút hai con, củ cải 200 g, dầu, gừng gia vị vừa đủ. Chim cút làm sạch, chặt thành miếng vuông cạnh 2 cm. Củ cải thái miếng dài 4cm rộng 2cm. Rán thịt chim đổi màu mới cho củ cải vào xào, rồi cho gia vị, thêm ít nước vào nấu cho đến khi chín.

- Trừ đàm tích, giúp tiêu hóa tốt: Ăn dưa cải củ muối. Thường dùng vào mùa thu đông, lúc trời hanh gây khô cổ, dễ bị ho, hoặc dùng khi có đờm, ăn khó tiêu (nhất là khi ăn món nhiều thịt mỡ). Nên ăn khi dưa củ cải còn trắng dòn.

BS Phó Đức Thuần, Sức Khỏe & Đời Sống

 

*****************************************************************

 

TẢN MẠN VỀ TRÀ

 

Trà và những điều cấm kỵ

Trà rất tốt cho sức khỏe và cả sắc đẹp nữa nhưng cũng có thể tác dụng ngược lại nếu không được dùng đúng cách. Chẳng hạn, bạn không được uống trà lạnh vì có thể dẫn đến biếng ăn, tích đờm, nhất là nếu trà được pha đặc.

Uống trà quá nóng cũng không tốt. Chén trà nóng quá 65 độ C sẽ gây tổn thương vách trong của dạ dày, dẫn đến bị đau hay loét cơ quan này. Mặc dù một ấm trà ngon phải được ủ từ nước đun thật sôi nhưng nhiệt độ lý tưởng để bạn uống lại là 60-65 độ C.

Ngoài ra, các bác sĩ Đông Y cũng khuyên bạn không nên uống nước trà hoặc những vị thuốc có nhiều thành phần trà khi đói bụng. Chất chát trong trà sẽ đi vào tạng phế và làm lạnh tỳ, vị. Lúc đó, bạn sẽ có cảm giác cồn cào, nôn nao trong người, chóng mặt, hoa mắt, rất khó chịu.

Bạn cũng đừng uống trà trước khi ăn. Trà có khả năng kích thích dạ dày tiết ra nhiều chất chua. Vị chua sẽ làm mất cảm giác ngon miệng, cơ thể hấp thu thức ăn kém đi. Uống trà ngay sau khi ăn cơm cũng có hại; vì chất tanin của trà có thể tạo ra phản ứng kết tủa với sắt trong thực phẩm. Khi đó, lượng sắt quý giá này coi như bị mất. Tốt nhất là hãy chờ khoảng 15-20 phút rồi mới cầm đến chén trà.

Lưu ý cuối cùng là không uống nước trà để qua đêm. Khi để lâu như vậy, trong nước trà sẽ xuất hiện các loài vi sinh vật hay nấm mốc. Vì vậy, mỗi sáng mai thức dậy, bạn nên tráng ấm trà thật kỹ bằng nước sôi rồi hẵng pha ấm mới.

(Theo Tư Vấn Tiêu Dùng)

 

Trà kỷ tử - vị thuốc chữa nhiều bệnh

 

Tương truyền, vào đời Đường, tể tướng Phòng Huyền Linh vì dụng tâm quá độ giúp Đường Thái Tông cai quản triều chính nên tinh thần luôn bất an, cơ thể mỏi mệt. Nhờ được thái y cho dùng canh kỷ tử nấu với mộc nhĩ trắng thường xuyên mà sức khỏe và tinh thần của ông dần phục hồi.

Kỷ tử là quả chín phơi hay sấy khô của cây khởi tử, tên khoa học là Lycium barbarum L. Thời cổ đại, nó còn được gọi bằng các tên như thiên tinh (tinh của trời), địa tiên (tiên của đất), khước lão (đẩy lui tuổi già). Chỉ cần mỗi ngày lấy 15 g kỷ tử hãm với nước sôi trong bình kín, sau chừng 15-20 phút là ta đã có được một thứ nước màu đỏ đẹp, thơm ngon, vừa có tác dụng giải khát thay trà lại vừa có công năng bổ thận, ích tinh và dưỡng can, minh mục. Loại trà này thường được cổ nhân dùng để bồi bổ cơ thể và phòng chống tích cực các chứng bệnh như suy nhược toàn thân sau bệnh nặng, đầu choáng mắt hoa, giảm thị lực, lưng đau gối mỏi, nhược dương, di mộng tinh, xuất tinh sớm, muộn con...

Tại Trung Quốc, kỷ tử phân bố ở nhiều nơi nhưng loại được trồng ở Ninh Hạ có chất lượng cao hơn cả. Ở đây, người ta gọi vị thuốc này là "minh mục tử", có nghĩa là thứ quả làm sáng mắt. Truyền thuyết kể lại rằng, ngày xưa ở Ninh An thuộc tỉnh Ninh Hạ có một cô gái tên là Cẩu Hồng Quả. Cha cô không may mất sớm, vì quá thương nhớ chồng, mẹ cô khóc nhiều đến nỗi cả hai con mắt bị bệnh không nhìn thấy gì cả. Để chữa bệnh cho mẹ, Cẩu Hồng Quả đã không quản gian lao khó nhọc, ngày đêm trèo đèo lội suối lên tận Nam Sơn hái thuốc. Cảm động trước tấm lòng hiếu thảo của cô, tiên ông Bạch Hồ Tử đã hiện ra và chỉ dẫn Cẩu Hồng Quả thu hái kỷ tử về làm thuốc cho mẹ cô uống. Quả nhiên, sau một thời gian dùng thuốc, mắt mẹ cô ngày càng sáng ra và khỏi hẳn. Vì thế, dân trong vùng gọi thảo dược này là "minh mục tử" và coi đó là thứ "linh đan diệu dược" chuyên chữa bệnh về mắt.

Theo dược học cổ truyền, kỷ tử vị ngọt, tính bình, có công dụng tư bổ can thận, dưỡng huyết, minh mục và nhuận phế. Nếu can thận âm hư thì tinh và huyết đều thiếu, không thể nuôi dưỡng mắt đầy đủ được, phát sinh chứng hoa mắt, mắt mờ, thị lực giảm sút... Kỷ tử là vị thuốc vào được cả kinh can và thận, một mặt bổ ích thận tinh, một mặt bổ dưỡng can huyết nên có thể chữa được các chứng bệnh như đầu choáng, mắt hoa, nhìn mờ, tai ù, tai điếc, lưng đau, gối mỏi, di tinh, liệt dương...

Các nghiên cứu hiện đại cho thấy, kỷ tử là một trong những vị thuốc có tác dụng dược lý rất phong phú:

- Cải thiện và điều tiết công năng miễn dịch của cơ thể.

- Nâng cao năng lực hoạt động của hệ thống nội tiết Hạ khâu não - Tuyến yên - Tuyến thượng thận.

- Bảo vệ tế bào gan, ức chế sự lắng đọng chất mỡ trong gan, thúc đẩy quá trình tái sinh của tế bào gan.

- Điều chỉnh rối loạn lipid máu, làm hạ cholesterol và làm chậm sự hình thành các mảng vữa xơ trong huyết quản.

- Hạ đường huyết.

- Làm giãn mạch và hạ huyết áp.

- Thúc đẩy quá trình tạo huyết của tủy xương.

- Chống ôxy hóa và làm chậm sự lão hóa.

- Nâng cao sức chịu đựng của cơ thể trong điều kiện thiếu ôxy, phòng chống tích cực trạng thái mệt mỏi.

- Chống phóng xạ và ức chế sự phát triển của tế bào ung thư...

Để nâng cao tác dụng của trà kỷ tử, tùy theo thể chất và chứng trạng cụ thể, người ta thường thêm một số vị thuốc khác như: cúc hoa (để làm sáng mắt và chữa đau đầu, chóng mặt), mạch môn và ngũ vị tử (cải thiện trí nhớ và làm cho tinh thần tỉnh táo), thảo quyết minh, đan sâm và hà thủ ô (bổ can thận và làm hạ mỡ máu), đương quy và đại táo (dưỡng huyết, làm tăng hồng cầu trong máu ngoại vi), toan táo nhân và ngũ vị tử (dưỡng tâm, an thần), đông trùng hạ thảo (để bổ thận trợ dương)...

ThS Hoàng Khánh Toàn, Sức Khỏe & Đời Sống

 

 

Trà xanh ngăn chặn sự lây lan của ung thư

 

Một nghiên cứu mới đây của các nhà khoa học Mỹ cho thấy trà xanh có tác dụng ngăn chặn sự di căn của tế bào ung thư tuyến tiền liệt.

 

Trong công trình nghiên cứu trên chuột, nhóm nghiên cứu tại Đại học Wisconsin và Đại học Case Western Reserve (Mỹ) nhận thấy chất polyphenol có trong trà xanh tấn công các "đường vào của phân tử gốc" - nơi phát động quá trình sinh sôi và di căn của tế bào ung thư. Polyphenol cũng ngăn chặn sự phát triển của các mạch máu cung cấp dưỡng chất cho các khối u tiền liệt tuyến.

"Việc uống trà xanh làm giảm nồng độ IGF-1- hoóc môn có vai trò quan trọng đối với nguy cơ xuất hiện tế bào ung thư tiền liệt tuyến. Ngoài ra, trà xanh còn làm tăng nồng độ của một trong những loại protein có khả năng 'trói' IGF-1", Hasan Mukhtar, trưởng nhóm nghiên cứu, cho biết.

Việt Linh (theo Healthday)

 

 

 

“TRÀ VI BÁCH BỆNH CHI DƯỢC”

Tác giả : BS. QUÁCH TUẤN VINH

 

Người xưa có câu “Trà vi bách bệnh chi dược” - Trà là thứ thuốc có thể chữa trăm thứ bệnh! Đây là loại nước uống truyền thống và không thể thiếu của người Việt Nam, Nhật Bản, Trung Quốc... Trà tươi, trà khô (trà xanh, trà đen) đã trở nên quen thuộc với người dân nước ta, từ nông thôn đến thành thị... Uống trà còn là một thú ẩm thực thanh tao, một nét văn hóa truyền thống của nhiều dân tộc.

CÔNG DỤNG CHỮA BỆNH CỦA TRÀ

Ở Nhật, từ thế kỷ 15, trà đạo đã được nâng lên thành một nghệ thuật đặc sắc. Người Nhật xem việc uống trà là một phương thức chữa bệnh vô sinh hữu hiệu, một phép rèn luyện, vệ sinh tinh thần bổ ích. Đến với trà đạo, bạn có thể rũ bỏ được mọi toan tính, lo âu phiền muộn, tạo lập sự yên bình tâm hồn! Trong trà tươi có chứa nhiều polyphenol, catechin, cafein, theophylin, tanin. Ở trà xanh, vitamin C có khá nhiều còn ở trà đen hầu như không còn. Nước trà xanh còn chứa Rutoside có tác dụng tốt hơn cả vitamin E. Tổ chức sức khỏe Hoa Kỳ đã công bố một kết quả nghiên cứu từ nhiều năm: “Nước trà có thể bảo vệ sức khỏe con người, chống lại các bệnh tim mạch và ung thư”. Catechin có nhiều trong trà có tính chất kháng ung thư, chống đông máu trong lòng mạch, hạ cholesterol, hạ huyết áp... Loại dược thảo này có tác dụng làm giảm các bệnh tim mạch và tai biến mạch máu não, ngăn chặn sự phát triển của các tế bào ung thư đường tiêu hóa, ung thư phổi, ung thư vòm họng... Đây cũng là lần đầu tiên người ta công nhận nước trà có vai trò hàng đầu trong việc chống ung thư. Tạp chí Lancet số 8878 đã đăng kết quả nghiên cứu trong 5 năm trên 865 người tình nguyện có trọng lượng cơ thể và mức hạ huyết áp như nhau. Trong 3 nhóm nghiên cứu, nhóm dùng trà nhiều nhất có tỷ lệ tử vong do các bệnh tim mạch và các cơn nhồi máu cơ tim ít nhất. Ngoài tác dụng phòng và chữa bệnh tim mạch, theo nghiên cứu của Viện virus học Liên Xô (cũ): Nước trà còn có tác dụng dự phòng chống nhiễm virus ở người theo cơ chế kích thích cơ thể tự sản sinh ra interferon nội sinh, là chất có tác dụng tiêu diệt virus. Ở Việt Nam, các nhà khoa học đã áp dụng phương pháp phòng bệnh viêm não Nhật Bản B bằng trà xanh có tác dụng tốt. Ông Sirving Keli thuộc Viện nghiên cứu sức khỏe và môi trường Hà Lan đã chứng minh người uống 5 chén trà trở lên một ngày sẽ có ít nguy cơ bị viêm màng não. Một nghiên cứu cũng đã cho biết các polyphenol có trong nước trà là một chất đặc biệt có thể tiêu diệt các tế bào ung thư và ức chế sự phát triển của ung thư bằng cách hạn chế sự tăng sinh của mạch máu xung quanh chúng. Loại polyphenol có tác dụng nhất là Epigallocatechin gallte (EGCG). Lượng polyphenol còn lại ở trà xanh nhiều hơn ở trà đen do phương pháp chế biến. Theo La Recherche, trà có tác dụng kích thích thần kinh trung ương, giúp tinh thần sảng khoái, trí óc sáng suốt. Chất cafein trong trà còn có tác dụng lợi tiểu, kích thích hô hấp. Một tác dụng đặc biệt nữa của trà là giúp máu lưu thông tốt, có lợi cho những người bị vữa xơ động mạch, tăng huyết áp, thiểu năng tuần hoàn não...Từ những nghiên cứu trên, các nhà khoa học đã đi đến kết luận: Trong trà chứa một số chất chống oxy hóa cần thiết có thể ngăn ngừa được ung thư. Phenylpolyphenol có nhiều trong nước trà, được coi là một trong những chất có tác dụng chống ung thư, chống oxy hóa mạnh tương tự như vitamin C và E. Các chất này có thể quét sạch các gốc tự do - những phần tử không bền vững gây tổn thương cho ADN và màng tế bào. Nước trà có thể phòng chống một số bệnh ung thư như ung thư gan, ung thư dạ dày, có khả năng ức chế việc hình thành chất nitrosamine. Thí nghiệm trên động vật cho thấy, cho chuột uống nước trà thì tỷ lệ mắc ung thư giảm hơn so với nhóm chứng. Nghiên cứu của các nhà khoa học Úc tiến hành tại Trung Quốc cho kết quả, phụ nữ uống trà xanh đều đặn hàng ngày sẽ giảm được 60% khả năng bị ung thư buồng trứng. Kết luận này được các nhà khoa học Trung Quốc đưa ra sau khi tiến hành nghiên cứu ở hơn 900 phụ nữ. Theo các chuyên gia y tế, các loại trà khác cũng tỏ ra hiệu quả nhưng trà xanh có tác dụng mạnh nhất do chứa nhiều chất catechin nhất, sau đó là trà ô long rồi đến trà đen. Các nghiên cứu trước đó đã cho thấy, catechin có thể giúp ngăn ngừa sự phát triển của tế bào ung thư và bảo vệ tế bào khỏe mạnh khỏi bị tổn thương. Trà xanh có thể phòng ngừa được ung thư da; Nếu uống 4 chén trà xanh mỗi ngày có thể ngăn ngừa được ung thư da và nó cũng có hiệu lực tương tự nếu được đưa vào kem bảo vệ da. Một nghiên cứu ở Nhật Bản cho thấy tỷ lệ mắc bệnh ung thư ở Nhật Bản ít hơn ở Mỹ, người ta cho rằng có lẽ do người Mỹ ít uống trà hơn so với người Nhật. Nghiên cứu phối hợp của Mỹ và Viện Ung thư Thượng Hải (Trung Quốc) nhận thấy, nguy cơ bị ung thư dạ dày và thực quản giảm 50% ở người thường xuyên uống trà so với người không dùng đồ uống này. Giáo sư John Weiburger, một trong những người đứng đầu Tổ chức y tế Mỹ cho rằng: “Trà có khả năng làm giảm nhẹ các bệnh tim mạch trên thế giới, đặc biệt là ở những người có nếp sinh hoạt lành mạnh. Trà có tác dụng phòng bệnh, giảm được chi phí hàng triệu đô la để điều trị tim mạch và ung thư”. Hải Thượng Lãn Ông, danh y Việt Nam cũng đã viết: “Hàng ngày uống nước rất cần, trà xanh giải nhiệt, sinh tán, hóa đàm giải độc, lợi tiểu, tiêu cơm. Váng đầu chóng mặt lại càng được thanh. Uống vừa khoan khoái thần minh...”. Nhưng: “Uống nhiều khó ngủ, thân mình gầy xanh, uống trà lúc đói chẳng lành, hóa tiêu, thận bại, tỳ sinh hư hàn. Nước trà uống lạnh tích đàm, chi bằng uống nóng khi còn bốc hơi”. NHỮNG LƯU Ý KHI UỐNG TRÀ - Sau khi ăn thịt chó, thịt dê không nên uống trà do acid tanic có trong nước trà kết hợp với protein, tạo thành tanalbin có thể gây táo bón và đau bụng... - Không uống trà vào lúc sáng sớm chưa ăn gì, vì có thể làm tổn thương thận khí. - Trà có tính hàn nên uống lạnh sẽ gây tích đờm. Do đó nên uống nóng, uống ít. Khi hãm trà nên cho thêm vài lát gừng tươi. - Uống nhiều làm giáng khí, thương khí, thương tinh, mất ngủ. - Không nên uống trà đặc vào buổi tối. - Người cao tuổi nếu khí huyết hư nhược, uống nhiều nước trà có thể hại cho tỳ vị, ảnh hưởng không tốt đến sức khỏe.

 

 

 

Trà đen cải thiện tuần hoàn máu

 

Chỉ 2 giờ sau khi nhấm nhấp một tách trà đen, sức lưu thông máu trong hệ mạch vành sẽ tăng lên rõ rệt, các nhà khoa học Nhật Bản khẳng định. Tác dụng "thần kỳ" này không thể có trong các loại nước uống chứa caffein.

 

Y học đã có vô số công trình nghiên cứu về sự ưu ái của cây chè đối với trái tim. Thứ nước uống tinh khiết đó có khả năng kiểm soát lượng cholesterol, ngăn ngừa sự hình thành cục máu đông và tăng cường chức năng của mạch máu. Tuy nhiên, tác dụng tức thì của trà đen lên hệ mạch máu nuôi tim thì chỉ vừa mới được các nhà khoa học đến từ Đại học Osaka phát hiện. Trong tạp chí Tim mạch của Mỹ, nhóm nghiên cứu cho rằng trà đen giúp cải thiện khả năng giãn nở của mạch máu, cho phép dòng máu lưu thông trôi chảy hơn.

Trong nghiên cứu trên 10 người khỏe mạnh, các chuyên gia đã sử dụng một phương pháp siêu âm đặc biệt để đánh giá mức độ tuần toàn máu trong hệ mạch vành. Nó sẽ phản ánh tốc độ gia tăng của dòng chảy khi tim có nhu cầu. Mỗi tình nguyện viên được siêu âm sau khi uống trà đen và nước chứa caffein, và kết quả không nằm ngoài dự đoán - trà đen đã tạo nên sự khác biệt rõ rệt trong hệ tuần hoàn máu.

Theo tiến sĩ Kenei Shimada, thành viên nhóm nghiên cứu, chìa khóa của hiện tượng này có thể nằm trong các hợp chất chống oxy hóa flavonoid có trong trà đen. Những chất này giúp cải thiện chức năng của lớp niêm mạc trong mạch máu và làm tăng độ giãn nở của thành mạch để đáp ứng cho dòng chảy. Tình trạng suy thoái chức năng của lớp màng trong này sẽ mau chóng dẫn đến bệnh tim.

Mỹ Linh (theo Reuters)

 

Những điều cần tránh khi uống trà

 

Không nên uống trà ngay sau khi ăn cơm vì khi đến dạ dày, chất tanin trong trà sẽ làm cho protein trong thức ăn trở nên cứng. Hơn nữa, nước chè cũng ức chế sự hấp thụ chất sắt. Vì vậy, nếu muốn uống trà, bạn hãy đợi nửa giờ sau bữa ăn.

Ngoài ra, khi uống trà cũng cần chú ý:

- Không nên uống trà lạnh: Điều này không chỉ làm mất tác dụng giải nhiệt, hạ đờm của nước chè mà còn gây nguy cơ bị lạnh, kéo đờm. Trái lại, nước chè nóng sẽ giúp tinh thần sảng khoái, tai thính, mắt tinh.

- Không nên uống nước chè đặc thường xuyên: Uống nước chè đặc tuy có rất nhiều cái lợi nhưng nếu uống thường xuyên thì kết quả lại ngược lại. Nguyên nhân là do trong nước chè đặc có tương đối nhiều chất nhu, ảnh hưởng xấu tới tiêu hoá (làm loãng dịch vị; khiến niêm mạc dạ dày co lại; làm chất protein trở nên rắn và lắng xuống). Ngoài ra, chất nhu còn có thể làm giảm khả năng hấp thụ sắt và vitaminh B1 của cơ thể. Nếu kéo dài sẽ sinh bệnh thiếu máu do thiếu sắt và thiếu vitamin B1.

- Những người bị bệnh cao huyết áp, bệnh tim, tiểu đường, viêm gan, viêm thận… nếu uống nước chè đặc vào lúc đói có thể làm cho bệnh nặng hơn. Người đang cho con bú mà uống nước chè đặc thì sữa cũng ít đi.

Gia Đình và Xã Hội

 

 

TRÀ TANG THẦM, ĐỒ UỐNG DÂN GIAN ĐỘC ĐÁO

Tác giả : Thạc sĩ HOÀNG KHÁNH TOÀN

 

Từ xa xưa người ta đã biết dùng các loại hoa và trái cây để làm thức uống hàng ngày như: cam, quất, chanh, hoa hòe, nụ vối, hạt é, đười ươi...

Mỗi loại đều cho một hương vị riêng, trong đó tang thầm được cổ nhân dùng dưới dạng trà gọi là trà tang thầm và cũng là bài thuốc độc đáo.

TANG THẦM

Tên khoa học là Fructus Mori Albae hay còn gọi là tang thực, tang táo, tang quả, ô thầm, hắc thầm... là tên gọi dân dã của quả dâu chín, một thứ trái cây hết sức dung dị và rẻ tiền ở nông thôn. Vào khoảng thời gian chuyển từ mùa xuân sang mùa hạ, tang thầm được bày bán rộng rãi. Bên cạnh những loại nước ép trái cây sang trọng và đắt tiền, tang thầm vẫn gây được sự chú ý của người mua bởi sắc màu tím thẫm và hình hài căng mọng hấp dẫn của nó. Tang thầm thường dùng để ăn sống, ngâm rượu, làm mứt hoặc ngâm với đường kính chế biến nước giải khát dùng cho cả mùa nóng. Ngoài ra tang thầm còn có cách chế biến rất đơn giản mà hiệu quả, đó là sử dụng dưới dạng trà, cổ nhân gọi là trà tang thầm. Vậy loại trà này được chế biến như thế nào? Công dụng và cách dùng ra sao?

CÁCH CHẾ BIẾN

Nên chọn những quả dâu đã chín, lành lặn, loại bỏ các tạp chất, dùng nước sạch rửa thật kỹ (chú ý nhẹ tay để tránh dập nát), đem phơi hoặc sấy thật khô rồi đựng trong lọ kín (tốt nhất là lọ sành) để dùng dần. Mỗi ngày 2 lần, mỗi lần lấy 10-15g hãm với nước sôi trong bình kín, sau chừng 15 phút thì dùng được, uống thay trà trong ngày. Trên thực tế, ngoài tang thầm, người ta còn phối hợp thêm với một số vị thuốc khác nhằm nâng cao và mở rộng hiệu quả phòng chống bệnh tật của loại trà này.

 

CÔNG DỤNG

Tang thầm, theo Dược học cổ truyền có vị chua ngọt, tính lạnh, có công dụng tư âm dưỡng huyết, bổ can ích thận, sinh tân nhuận tràng, ô phát (làm đen râu tóc) và trừ phong thấp, thường được dùng để chữa các chứng bệnh do can thận bất túc gây nên như đầu choáng mắt hoa, lưng đau gối mỏi, tai ù điếc, râu tóc bạc sớm, mất ngủ hay mê, tiêu khát (đái đường), táo bón, các khớp vận động khó khăn... Các y thư cổ như: Bản thảo cương mục, Bản thảo thập di, Bản thảo kinh sơ, Bản thảo cầu chân, Tân tu bản thảo, Trấn nam bản thảo, Tùy tức cư ẩm thực phổ... đều đề cập đến tang thầm với những kiến giải khá sâu sắc. Ví như, sách Bản thảo kinh sơ đã viết: “Tang thầm, cam hàn ích huyết nhi trừ nhiệt, vi lương huyết bổ huyết ích âm chi dược. Tiêu khát do nội nhiệt, tân dịch bất túc, sinh tân cố chỉ khát. Ngũ tạng giai thuộc âm, ích âm cố lợi ngũ tạng. Âm bất túc tắc quan tiết chi huyết khí bất thông, huyết sinh tâm mãn, âm khí trường thịnh, tắc bất cơ nhi huyết khí tự thông hĩ. Nhiệt thoái âm sinh, tắc can tâm vô hỏa, cố hồn an nhi thần tự thanh ninh, thần thanh tắc thông minh nội phát, âm phục tắc biến bạch bất lão” (quả dâu chín vị ngọt, tính hàn, là thứ thuốc mát huyết, bổ huyết dưỡng âm mà trừ được nhiệt. Chứng tiêu khát sinh ra do dịch thiếu nên sinh nội nhiệt, (quả dâu) sinh dịch mới mà chữa được. Năm tạng đều thuộc âm, dưỡng âm thì lợi cho tạng. Âm thiếu thì các khớp khí huyết không thông, (quả dâu) bổ sung đầy đủ huyết dịch thì âm khí trường thịnh mà khí huyết tự thông. Nhiệt giải âm đủ thì hỏa trong can và tâm cũng hết, tinh thần trở nên thanh sáng an bình, trí tuệ minh mẫn, âm khí hồi phục thì râu tóc đen lại mà trường thọ). Sách Bản thảo cương mục viết: “Tang thầm... cửu phục bất cơ, an hồn trấn thần, lệnh nhân thông minh” (quả dâu chín... dùng lâu an thần trấn tĩnh, làm cho con người trở nên thông minh). Sách Trấn nam bản thảo cho rằng tang thầm “ích thận tạng nhi cố tinh, cửu phục hắc phát minh mục” (bổ thận, làm cho tinh khí vững chắc, dùng lâu có thể đen tóc và sáng mắt)...

Kết quả nghiên cứu hiện đại cho thấy, trong thành phần quả dâu có chứa các loại đường, acid tannic, acid malic, các vitamin B1, B2, A, C và caroten, các acid béo như acid linoleic, acid oleic, acid palmitic, acid stearic... Dịch chiết quả dâu có tác dụng: (1) Tăng cường công năng miễn dịch, kể cả miễn dịch tế bào và miễn dịch dịch thể; (2) Thúc đẩy cơ năng tạo huyết, làm cho tế bào lympho nhanh chuyển hóa và thanh thục; (3) Làm giảm hoạt tính của men Na+, K+ - Atpase ở màng hồng cầu, từ đó ảnh hưởng đến quá trình sản nhiệt của cơ thể.

MỘT SỐ CÔNG THỨC PHỐI HỢP

Để nâng cao hiệu quả và mở rộng phạm vi trị bệnh của trà tang thầm, người xưa còn hay phối hợp thêm với một số vị thuốc khác theo các công thức cụ thể như: (1) Tang thầm 10g, ngũ vị tử 10g. Hãm uống để trị chứng dễ vã mồ hôi ban ngày (tự hãn) và ra mồ hôi trộm (đạo hãn); (2) Tang thầm 15g, thục địa 15g và bạch thược 15g hoặc tang thầm 15g và toan táo nhân 12g. Hãm uống để chữa mất ngủ; (3) Tang thầm 15g, cát căn 15g, hoàng cầm 8g, cúc hoa 8g, tiểu kế 8g. Hãm uống để chữa cao huyết áp; (4) Tang thầm 10g, bạch truật 6g. Hãm uống để chữa chứng chậm tiêu; (5) Tang thầm 15g, kỷ tử 15g, đại táo 15g. Hãm uống để chữa chứng đầu choáng mắt hoa; (6) Tang thầm 15g, long nhãn 15g hay tang thầm 15g, thỏ ty tử 12g, nữ trinh tử 12g, kỷ tử 12g, thục địa 8g, tiên linh tỳ 8g, phá cố chỉ 8g. Hãm uống để chữa thiếu máu; (7) Tang thầm 15g, hà thủ ô 15g, nữ trinh tử 15g và cỏ nhọ nồi 10g. Hãm uống để chữa chứng râu tóc bạc sớm; (8) Tang thầm 15g, nhục dung 15g, vừng đen 15g và chỉ xác sao 8g. Hãm uống để chữa táo bón; (9) Tang thầm 15g, hồng hoa 3g, kê huyết đằng 12g. Hãm uống để trị chứng bế kinh; (10) Tang thầm 30g, địa cốt bì 15g và đường phèn 15g. Hãm uống để trị chứng ho khan ít đờm và lao phổi...

Điều cần lưu ý là, vì tang thầm tính lạnh và có tác dụng nhuận tràng nên những người hay bị rối loạn tiêu hóa, đi lỏng do tỳ vị hư yếu và những người bị cảm mạo, ho nhiều do phong hàn không nên dùng trà tang thầm. Khi pha loại trà này tuyệt đối không dùng ấm chén bằng kim loại.  

 

 

 

Rượu thuốc cho người cao tuổi

 

Để bổ khí huyết, những người cao tuổi có khí huyết hư có thể dùng rượu bất lão thang, gồm các vị sau: long nhãn, nhân sâm, bạch truật, hoàng kỳ, nhục quế, đương quy, thục địa, mạch môn, hà thủ ô, xuyên khung, phòng phong, đại táo. Không nên dùng rượu này cho người cao huyết áp hoặc đang sốt.
 

Rượu thuốc có hai thành phần: rượu và thuốc. Rượu có tác dụng làm dung môi hòa tan các chất thuốc, giúp thuốc hấp thu vào cơ thể nhanh. Thuốc có tác dụng nâng cao sức khỏe, bổ sung cái mà cơ thể đang thiếu hụt, loại trừ yếu tố gây bệnh. Không phải bất cứ loại rượu thuốc nào cũng đều tốt cho bất cứ ai uống nó; có loại dùng được cho người này, song không dùng được cho người khác. Vì vậy, khi mua rượu thuốc, cần tham khảo ý kiến của thầy thuốc để biết trạng thái cụ thể của mình, sau đó mới chọn rượu. Sau đây xin giới thiệu vài loại rượu cụ thể:

- Rượu tắc kè: Tắc kè, vỏ quýt, đẳng sâm, huyết giác tiểu hồi, đường trắng. Công năng của rượu tắc kè là bổ phế, ích khí, tráng dương, dùng để chữa suy nhược cơ thể, ho hen, thận yếu (hay đái rắt), người già sức khỏe kém. Không được dùng cho người âm hư, người mới mắc ho hen.

- Rượu rắn: Rắn hổ mang, rắn cạp nong, rắn ráo, cẩu tích, tiểu hồi, hà thủ ô đỏ, kê huyết đằng, vỏ quýt, ngũ gia bì, thiên niên kiện. Công năng của rượu rắn là trừ phong tê thấp, dùng để chữa chứng đau nhức xương cơ khớp (thấp khớp), bán thân bất toại, đổ mồ hôi chân tay, người già đau mỏi cơ xương khớp khi thời tiết thay đổi. Những người tạng nhiệt (trong người thường cảm thấy nóng) không nên dùng.

- Rượu bổ huyết trừ phong: Cẩu tích, ngũ gia bì, tang chi, ngưu tất, hà thủ ô đỏ, thiên niên kiện, kê huyết đằng. Công năng của rượu là bổ huyết, trừ phong thấp, dùng chữa chứng đau cơ xương khớp, đau gân. Phụ nữ có thai không nên dùng vì có thể gây ảnh hưởng xấu đến thai, trẻ em dưới 15 tuổi mắc phong thấp cũng không nên dùng.

- Rượu đại bổ trường sinh: Nhân sâm, đẳng sâm, ngũ gia bì, dỏ dẻ, râu ngô, rễ cỏ tranh. Công năng của rượu này là bổ khí, tráng dương, dùng để bồi bổ cơ thể, tăng sức, chữa chán ăn, huyết áp thấp. Không nên dùng cho người có âm huyết hư. 

GS Hoàng Bảo Châu, Sức Khoẻ & Đời Sống

 

Rượu thuốc dùng trong mùa thu  

Cúc hoa 50 g rửa sạch, để ráo, ngâm với 500 ml rượu trắng, sau 10 ngày là dùng được; uống ngày 2 lần, mỗi lần 10-20 ml. Rượu này có....

 

RAU SAM, CÂY RAU VỊ THUỐC

 

 

Lương Y Võ Hà

Rau Sam là một loại rau mọc hoang, ăn được, không có độc tính, có nhiều chất bổ dưởng như sinh tố A, B1, B2, C, PP, một số khoáng chất và nhiều acid béo omega-3. Ngoài tác dụng thanh nhiệt, lương huyết, có thể cải thiện nồng độ cholesterol cao trong máu, rau Sam còn là một nguồn kháng sinh tự nhiên rất quý trong việc điều trị các chứng viêm nhiểm đường ruột và đường sinh dục tiết niệu.

 

 

 

bottom of page